19/1/15

Cách sử dụng máy phun khí dung

Máy phun khí dung là thiết bị chuyển thuốc dạng dung dịch hoặc huyền dịch thành hạt sương nhỏ li ti, có thể đi sâu vào đường hô hấp dưới và lắng đọng ở đó. Khí dung được sử dụng chủ yếu trong điều trị bệnh hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và một số bệnh đường hô hấp khác. Các chế phẩm thường dùng để khí dung gồm thuốc nhóm corticoid, thuốc giãn phế quản, kháng sinh, long đờm và nước muối sinh lý 0,9%.
Máy phun khí dung có thiết kế và mục đích sử dụng rất giống với bình xịt định liều trong điều trị bệnh hen. Máy phù hợp với trẻ nhỏ hoặc người già và bệnh nhân nặng không có khả năng giữ bình xịt và hít sâu đúng kỹ thuật. So với bình xịt định liều, khí dung giúp đưa vào phổi lượng thuốc lớn hơn, với tốc độ nhanh hơn (nhất là trong bệnh hen). Tuy nhiên, các số liệu gần đây cho thấy tỷ lệ thuốc lắng đọng trong phổi ở hai phương pháp này là như nhau.


 Một số loại bình xịt định liều.

Ưu điểm của liệu pháp khí dung là giúp thuốc lắng đọng trực tiếp vào đường hô hấp, tạo nồng độ cao hơn tại các nhánh phế quản và phế nang, gây ít tác dụng phụ hơn so với sử dụng thuốc bằng đường uống hoặc tiêm. Hiệu quả của liệu pháp khí dung, hay tỷ lệ thuốc lắng đọng ở phổi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm của thuốc khí dung (kích thước hạt sương, độ đậm đặc), giải phẫu đường hô hấp và kỹ thuật hít thở của bệnh nhân.

Nói chung, hạt sương càng nhỏ thì cơ hội tiến vào sâu và được giữ lại càng cao. Tuy nhiên, hạt quá nhỏ với đường kính < 0,5 µm lại không thể lắng đọng và sẽ bị thải ra ngoài qua hơi thở ra. Các hạt có kích thước >10 µm sẽ chỉ lắng đọng ở miệng và họng, hạt 5-10 µm có thể đi sâu hơn hầu họng, trong khi các hạt 1-5 µm có cơ hội lớn nhất đạt tới phế quản nhỏ và phế nang, mang lại hiệu quả điều trị mong muốn. 

Tìm hiểu về máy phun khí dung 

Tùy theo kích thước hạt sương, người ta phân biệt:

Máy khí dung hô hấp: các hạt sương có kích thước 2-5 µm sẽ vào sâu trong các phế quản nhỏ và có thể đến tận các phế nang, đây chính là vị trí thuốc phát huy tác dụng tốt nhất.

Máy khí dung tai mũi họng: các hạt sương có kích thước > 5 µm, đọng lại ở vùng hầu họng và xoang.  

Tùy theo cách hình thành hạt sương, người ta phân biệt 3 loại máy khí dung chính: máy dạng khí nén, dạng siêu âm và dạng rung lưới.



  • Máy dạng khí nén: Dùng khí nén để tạo các hạt sương, được sử dụng rộng rãi nhất do giá thành thấp hơn với hiệu quả lâm sàng tương đương trong nhiều trường hợp. Loại máy này có ưu điểm là dùng được thuốc dạng huyền phù và ít hỏng hóc về kỹ thuật. Tuy nhiên máy dạng khí nén có nhược điểm là cồng kềnh, gây tiếng ồn, cung cấp thuốc chậm hơn máy siêu âm, thất thoát thuốc lớn hơn do nhiều hạt khí dung thoát ra ngoài trong thì thở ra.
  • Máy dạng siêu âm: Dùng sóng siêu âm tạo các hạt sương. Máy có ưu điểm là gọn nhẹ hơn, không gây tiếng ồn, cung cấp một lượng thuốc lớn hơn trong thời gian ngắn hơn so với máy khí nén và tiết kiệm thuốc do hạt khí dung được giữ lại trong thì thở ra. Nhược điểm của loại máy này là giá thành cao hơn, sóng siêu âm có thể phá vỡ các phân tử phức hợp làm giảm hiệu quả của thuốc, không thể dùng cho thuốc dạng huyền dịch, dễ bị hỏng hóc điện và cơ. Ngoài ra, kích thước các hạt sương lớn hơn và hơi sương đậm đặc do máy tạo ra có thể gây co thắt phế quản, tăng sức cản đường hô hấp ở một số bệnh nhân. 
  • Máy lưới rung: Dùng công nghệ lưới rung siêu âm hiện đại, cho dung dịch thuốc đi qua một tấm lưới với hàng ngàn lỗ nhỏ để tạo các hạt sương li ti. Máy này hiệu quả hơn hai loại máy nói trên nhưng giá thành cao và phải tháo rời để rửa rất cẩn thận sau mỗi lần dùng, đề phòng tắc các lỗ ở màng. Chúng thường được chọn khi cần khí dung các loại thuốc đắt tiền nhằm giảm chi phí tiền thuốc. 

Máy phun khí dung dạng khí nén  

Trong máy khí nén, bộ khí dung (ống nhựa, cốc thuốc và mặt nạ hoặc ống thở miệng) được nối với nguồn khí nén qua phần ống nhựa. Không khí thổi qua cốc thuốc với tốc độ lớn sẽ biến dung dịch thành các hạt sương. Người bệnh hít thuốc dạng sương mù qua mặt nạ hoặc ống thở miệng - các bộ phận giúp làm tăng hiệu quả sử dụng thuốc. Bệnh nhân khó thở thường thích dùng mặt nạ hơn.


Chú ý: Khi khí dung các thuốc nhóm kháng colin ở bệnh nhân tăng nhãn áp, chỉ nên dùng ống thở miệng hoặc nếu bắt buộc phải dùng mặt nạ thì phải ép chặt mặt nạ vào mặt. Các thuốc kháng colin dạng hít như ipratropium bromide hoặc tiotropium bromide thường được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Cũng nên tránh dùng mặt nạ khi khí dung các thuốc corticoid, để thuốc không tiếp xúc được với da mặt xung quanh và mắt. 

Thành phần rất quan trọng của bộ khí dung là cốc thuốc, gồm 3 phần nhỏ: phần dưới là cốc đựng thuốc (nối với ống dẫn khí), tấm chắn, và phần trên (nối với mặt nạ). Khi làm vệ sinh máy, cần tháo rời và rửa sạch cả 3 bộ phận này. 


Quy trình vận hành máy 
  • Đặt máy khí dung lên bề mặt vững chãi. Lắp ráp các bộ phận và nối máy với nguồn điện.
  • Rửa sạch tay. Dùng ống nhỏ giọt hoặc ống tiêm sạch lấy thuốc cho vào cốc đựng thuốcĐể máy khí dung hoạt động hiệu quả, lượng dịch trong buồng đựng thuốc không được ít hơn 2,5 ml. Nếu không đạt ngưỡng này thì cần bổ sung nước muối sinh lý 0,9% cho được 2,5 ml. 

  • Đậy nắp cốc thuốc. Gắn phần trên của cốc thuốc với mặt nạ hoặc ống thở miệng. Gắn phần dưới của cốc cùng ống dẫn khí với máy nén khí. Bật máy khí dung để kiểm tra xem có sương phun ra không.
  • Yêu cầu bệnh nhân ngồi thẳng để phổi được giãn tối đa, làm tăng hiệu quả điều trị. Nếu người bệnh dùng mặt nạ thì chỉnh dây thắt và tư thế đeo cho vừa khít mặt. Với trẻ đủ lớn để phối hợp, khuyến khích trẻ ngồi thẳng người, hít thở bình thường và không nói chuyện trong thời gian khí dung. Trẻ nhỏ cần được bế ở tư thế ngồi thẳng.  
    Trẻ cần giữ thẳng người khi khí dung. 

    • Bệnh nhân thở sâu và chậm qua miệng, nếu có thể thì nín thở 2-3 giây trước mỗi lần thở ra, làm vậy để thuốc có thể lắng đọng trong đường hô hấp. 
    • Thường xuyên theo dõi phát hiện kịp thời các phản ứng phụ. Nếu bệnh nhân cảm thấy chóng mặt hoặc bồn chồn thì ngừng khí dung khoảng 5 phút. Tiếp tục khí dung nhưng yêu cầu người bệnh thở chậm hơn. Nếu cảm giác bồn chồn và chóng mặt vẫn tái diễn trong những lần điều trị  tiếp theo thì cần thông báo cho bác sĩ. Có thể bạn sẽ cần điều chỉnh liều hoặc thay thuốc.
    • Thời gian khí dung thường là 5 -10 phút, tối đa là 15 phút. Trong khi khí dung, thuốc có thể bám vào thành cốc đựng thuốc, gõ hoặc lắc nhẹ cốc cho các giọt này rơi xuống. Khi không còn thấy sương phun ra nữa và máy phát ra âm thanh phù phù ‘trống rỗng’ thì tắt máy.   
    * Một số lưu ý:
    • Không phải thuốc khí dung nào cũng có thể trộn với nhau (ví dụ không được trộn corticoid và thuốc giãn phế quản).
    • Không bao giờ dùng nước để khí dung, nước muối sinh lý 0,9% là dung dịch phù hợp nhất để bổ sung thể tích cần có.
    • Tác dụng phụ: Đôi khi thuốc để khí dung có thể gây phản ứng dị ứng nặng nề như khó thở, sưng nề ở mặt - môi - lưỡi - họng, thở rít khó nuốt. Một số loại thuốc như salbutamol có thể khiến bệnh nhân bồn chồn, tim đập nhanh, chóng mặt, run rẩy. Khí dung cũng có thể gây khô miệng, đau họng, nấm miệng và khiến triệu chứng hen nặng hơn.

    Làm vệ sinh dụng cụ 

    Máy khí dung tạo môi trường ấm và ẩm, rất tốt để vi khuẩn phát triển. Vì vậy, sau mỗi lần sử dụng cần rửa sạch và lau khô mặt nạ và ống thở miệng. Riêng đối với cốc đựng thuốc thì cần tháo rời ba bộ phận, đổ hết thuốc còn thừa, dùng nước xà phòng ấm rửa sạch cả ba phần rồi tráng lại bằng nước. 


    Dùng khăn sạch lau khô các bộ phận vì dung dịch còn lại sẽ tạo thuận lợi cho vi khuẩn trong môi trường tới cư trú. Phơi dụng cụ tại nơi mát, không để nước bắn vào.

    Bảo quản máy khí dung ở nơi thoáng mát và không có bụi, loại bỏ ống nhựa nếu bị mờ hoặc còn đọng nước bên trong. Thay màng lọc của máy nén khí theo hướng dẫn của nhà sản xuất (thường là 6 tháng một lần). 

    BS Trần Thu Thủy