Viêm phổi là tình trạng nhiễm trùng bên trong phổi, xuất hiện khi vi khuẩn hay virus kẹt trong cơ quan này, chúng sinh sôi nảy nở và tạo nên những ổ nhiễm trùng. Vi khuẩn thường gặp nhất là phế cầu khuẩn, một số loại viruss cũng gây nên bệnh này.
Bệnh có thể xuất hiện khi bé đang bị một đợt ho hoặc cảm cúm. Lúc này, dịch nhầy tiết ra trong phổi trở thành nguồn dinh dưỡng béo bở cho vi trùng. Sau vài ngày, vi khuẩn và virus có thể nhanh chóng sinh sôi nảy nở, tạo nên những túi phế nang chứa mủ và chất nhầy bị nhiễm khuẩn. Ho chính là phản xạ tự vệ rất quan trọng của cơ thể, giúp đẩy chấy nhầy ra khỏi túi phế nang trước khi nhiễm trùng đặt chân được vào đây.
Ho vừa đến nặng - thường là ho nặng tiếng, nhưng không nhất thiết như vậy.
Thở nhanh liên tục (khác với thở nhanh nhất thời khi trẻ bị sốt cao).
Trẻ được coi là thở nhanh nếu thở trên 60 lần/phút (dưới 2 tháng tuổi), trên 50 lần/phút (2 tháng - 1 tuổi) hoặc trên 40 lần/phút (trên 1 tuổi).
Đếm nhịp thở khi trẻ đang nằm yên, không hoạt động gắng sức. Dùng đồng hồ có kim giây để đếm trong vòng 1 phút.
Thở gắng sức: cánh mũi phập phồng, thở rên, co kéo cơ liên sườn (phần mềm giữa các xương sườn lõm vào khi trẻ hít vào), co rút hõm ức, rút lõm lồng ngực.
Dấu hiệu rút lõm lồng ngực khi trẻ hít vào.
(Khi bé hít vào, phần dưới lồng ngực không phình ra như thường lệ mà lõm vào, nguyên nhân là do cơ hoành phân cách ổ bụng và lồng ngực cũng tham gia vào quá trình thở).
Thở nhanh và thở gắng sức là phản ứng bù trừ nhưng cơ thể không thể cố gắng mãi. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể suy hô hấp, kiệt sức, nhịp thở chậm lại rồi ngưng thở.
Sốt - sốt vừa đến sốt cao.
Đau ngực - không chỉ trong lúc ho, mà cả giữa các cơn ho.
Nôn - không chỉ sau những cơn ho mạnh mà cả giữa các cơn ho.
Tím tái quanh môi và ở mặt - do thiếu ôxy
Thở rít - mặc dù thở rít thường là biểu hiện của nhiễm virus nhiều hơn nhưng đôi khi cũng xuất hiện trong viêm phổi.
3. Làm sao biết bé có bị viêm phổi không?
- Nếu bé có TẤT CẢ các biểu hiện trên thì nhiều khả năng bé bị viêm phổi.
- Nếu bé chỉ có 1 hay 2 triệu chứng thì nhiều khả năng là bé KHÔNG bị viêm phổi.
- Quan trọng nhất là 3 dấu hiệu - ho + sốt + thở nhanh hay thở gắng sức.
Ví dụ:
- Nếu bé chỉ có 1 hay 2 triệu chứng thì nhiều khả năng là bé KHÔNG bị viêm phổi.
- Quan trọng nhất là 3 dấu hiệu - ho + sốt + thở nhanh hay thở gắng sức.
Ví dụ:
- Nếu bé ho rất nhiều, sốt và đau ngực nhẹ khi ho, nhưng thở êm ái và không đau ngực ngoài cơn ho, ít khả năng là bé bị viêm phổi.
- Nếu bé ho nhiều, có kèm nôn sau một số cơn ho nhưng KHÔNG SỐT, thì cũng ít khả năng là bé bị viêm phổi.
- Nếu bé ho nhiều, có kèm nôn sau một số cơn ho nhưng KHÔNG SỐT, thì cũng ít khả năng là bé bị viêm phổi.
4. Khi nào cần gọi bác sĩ?
Nếu bé có hầu như TẤT CẢ các triệu chứng nói trên, có thở nhanh hoặc thở gắng sức nhưng KHÔNG TÍM ở môi hay ở mặt, bạn nên lấy hẹn đi khám bác sĩ ngay trong ngày.
Nếu bé có những biểu hiện trên VÀ tím quanh môi và ở mặt, phải đưa bé đến phòng khám cấp cứu ngay, có thể bé cần ôxy.
Không cần đưa bé đi khám bác sĩ vào buổi tối nếu bé có một số biểu hiện nói trên nhưng KHÔNG thở nhanh hay thở gắng sức, và KHÔNG tím. Bạn có thể đưa bé đi khám vào ngày hôm sau.
Trong mọi tình huống, nếu có bất cứ nghi ngờ gì hãy gọi điện tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc đưa bé đi khám ngay.
5. Điều trị
1. Kháng sinh - thường được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng do vi khuẩn nhưng không hiệu quả với viêm phổi do virus. Chỉ bác sĩ mới có thể quyết định bệnh do vi khuẩn hay virus gây ra.
Đưa bé vào ngồi trong phòng tắm đã bật vòi sen với nước nóng, cho bé hít thở hơi nước ấm trong vòng 10 phút, khoảng 4-6 lần mỗi ngày. Khum bàn tay và vỗ vào lồng ngực bé, tập trung vào vùng được chẩn đoán là có viêm phổi. Vỗ nhanh trong vòng 1 phút, rồi nghỉ 1 phút, rồi tiếp tục vỗ và nghỉ như vậy trong vòng 10 phút. Động tác này giúp các ổ đờm long ra, nhờ đó bé có thể ho và khạc đờm ra ngoài. Khuyến khích bé ho trong quá trình vỗ rung.
3. Thuốc ho:
- Ban ngày: Nếu trẻ không quá mệt mỏi vì ho thì không nên dùng các loại thuốc ức chế cơn ho. Phản xạ này giúp bé làm bật đờm ra ngoài. Có thể dùng thuốc long đờm nếu cần, giúp làm loãng chất nhầy kẹt lại trong phổi.
- Ban đêm: Nếu trẻ ho quá nhiều, có thể dùng kết hợp thuốc long đờm và thuốc ức chế cơn ho. Nếu bé chỉ ho vừa phải thì cố gắng không dùng thuốc chống ho.
6. Bệnh viêm phổi có lây nhiễm không?
Bệnh có lây nhưng không nhiều như suy nghĩ của đa số mọi người. Virus cảm cúm gây ra triệu chứng ho ban đầu có khả năng lây lan lớn nhưng ổ viêm nhiễm ở sâu dưới phối lại ít lây hơn. Khi tiếp xúc với bệnh nhân viêm phổi, người chăm sóc thường bị nhiễm virus với các biểu hiện ho và cảm cúm thông thường, nhưng ít khi tiến triển thành viêm phổi.
Sự lây nhiễm của viêm phổi không phụ thuộc nhiều vào chủng loại virus hay vi khuẩn gây bệnh ở trẻ mà phụ thuộc chủ yếu vào độ nhạy cảm của mỗi người. Như vậy, nếu một ai đó trong nhà bạn bị viêm phổi, phải điều trị bằng kháng sinh, thì điều này KHÔNG có nghĩa là những người còn lại trong gia đình cũng sẽ bị viêm phổi.
Virus có thể lây lan qua dịch tiết ở mũi hoặc miệng, khi bé ho hoặc hắt hơi, hoặc dùng chung dụng cụ ăn uống với người khỏe mạnh.
Sự lây nhiễm của viêm phổi không phụ thuộc nhiều vào chủng loại virus hay vi khuẩn gây bệnh ở trẻ mà phụ thuộc chủ yếu vào độ nhạy cảm của mỗi người. Như vậy, nếu một ai đó trong nhà bạn bị viêm phổi, phải điều trị bằng kháng sinh, thì điều này KHÔNG có nghĩa là những người còn lại trong gia đình cũng sẽ bị viêm phổi.
7. Dự phòng
Nguyên nhân thường gặp nhất gây viêm phổi ở trẻ em là phế cầu khuẩn. Từ năm 2000 đã có vắc xin phòng vi khuẩn này, tuy nhiên vắc xin chỉ có tác dụng với trẻ từ 2 tuổi trở lên. Phế cầu khuẩn cũng có thể gây viêm màng não, nhiễm trùng huyết và viêm tai, vì vậy vắc xin phòng bệnh do phế cầu khuẩn đã được đưa vào lịch tiêm chủng thường kỳ của trẻ em.
Ngoài việc tiêm phòng cho bé, cha mẹ nên áp dụng các biện pháp ngăn ngừa sự lây lan của vi khuẩn và virus đường hô hấp nói chung như rửa tay trước và sau khi ăn, tránh tiếp xúc gần với người bệnh, không dùng chung dụng cụ ăn uống với người ốm…
BS Thái Thanh Thư