Ths BS Nguyễn Thanh Hải thực hiện can thiệp điều trị tim nhanh tại BV Nhi T.Ư |
VOV - Bệnh viện Nhi Trung ương là đơn vị đầu tiên và duy nhất trong cả nước có thể can thiệp điều trị hầu hết các rối loạn nhịp tim cho trẻ ngay từ thời kỳ sơ sinh. Từ năm 2012 đến nay, gần 200 bệnh nhi bị nhịp tim nhanh đã được điều trị thành công và an toàn bằng kỹ thuật đốt điện.
Bệnh khó chẩn đoán
Nhịp tim nhanh là tim đập nhanh bất thường. Đây là một trong những rối loạn nhịp hay gặp nhất ở trẻ em. Tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện (BV) Nhi Trung ương (T.Ư), trường hợp của cháu Tùng Linh (8 tuổi, ở quận Hà Đông, Hà Nội), cách đây 7 tháng có biểu hiện tim đập nhanh, vã mồ hôi và buồn nôn. Tuy nhiên, vài tháng cháu Linh mới bị một lần khoảng 20 phút rồi lại đùa nghịch bình thường nên chị Tùng (mẹ cháu Tùng Linh) chưa đưa con đi kiểm tra. Gần đây, thấy cơn tim nhanh của con xuất hiện nhiều hơn, chị Tùng đưa con đến BV Nhi T.Ư khám. Sau 2 ngày theo dõi và làm các xét nghiệm chuyên sâu, bác sĩ mới phát hiện tình trạng bất thường của hệ thống dẫn truyền (hay hệ thống điện) trong tim của Linh dẫn đến cơn tim nhanh kịch phát. Một phương pháp điều trị can thiệp triệt để bằng đốt điện nhằm triệt bỏ đường dẫn truyền bất thường trong tim được tiến hành thành công.
Nhịp tim nhanh là tim đập nhanh bất thường. Đây là một trong những rối loạn nhịp hay gặp nhất ở trẻ em. Tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện (BV) Nhi Trung ương (T.Ư), trường hợp của cháu Tùng Linh (8 tuổi, ở quận Hà Đông, Hà Nội), cách đây 7 tháng có biểu hiện tim đập nhanh, vã mồ hôi và buồn nôn. Tuy nhiên, vài tháng cháu Linh mới bị một lần khoảng 20 phút rồi lại đùa nghịch bình thường nên chị Tùng (mẹ cháu Tùng Linh) chưa đưa con đi kiểm tra. Gần đây, thấy cơn tim nhanh của con xuất hiện nhiều hơn, chị Tùng đưa con đến BV Nhi T.Ư khám. Sau 2 ngày theo dõi và làm các xét nghiệm chuyên sâu, bác sĩ mới phát hiện tình trạng bất thường của hệ thống dẫn truyền (hay hệ thống điện) trong tim của Linh dẫn đến cơn tim nhanh kịch phát. Một phương pháp điều trị can thiệp triệt để bằng đốt điện nhằm triệt bỏ đường dẫn truyền bất thường trong tim được tiến hành thành công.
Còn cháu Bảo Nam (4 tuổi, ở Hà Nam), từ tháng 9/2014, thỉnh
thoảng có những cơn đau ngực. Đến BV tỉnh khám và xét nghiệm, các bác sĩ không
phát hiện ra tim cháu có vấn đề gì. Gần đây, cháu lại kêu đau ngực như trước,
nhưng đau 1-2 lần/ngày trong vòng một phút hoặc nửa phút, sau đó lại bình thường.
Chị Ba, mẹ cháu Bảo Nam đưa con đến khám ở BV Nhi T.Ư. Tại đây, các bác sĩ siêu
âm tim, điện tim… cho kết quả tim cháu vẫn bình thường. Tuy nhiên, khi bác sĩ
cho cháu đeo máy ghi điện tim liên tục trong 24 tiếng, mới phát hiện có cơn hoạt
động điện tim bất thường. Hiện các bác sĩ ở BV Nhi T.Ư vẫn tiếp tục tiến hành
các bước thăm dò trong tim của Nam để chẩn đoán chính xác nguyên nhân nhằm đưa
ra biện pháp điều trị hiệu quả.
Theo thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Thanh Hải, Khoa Tim mạch, BV
Nhi T.Ư, cơn tim nhanh kịch phát có đặc tính xuất hiện và mất đi đột ngột, kéo
dài vài phút đến hàng giờ và thậm trí vài ngày, tái phát nhiều lần. Biểu hiện bệnh
khá phức tạp, từ các triệu chứng mơ hồ hoặc không rõ ràng đến tình trạng nguy kịch
xuất hiện đột ngột. Việc chẩn đoán cơn tim nhanh ở trẻ chủ yếu dựa vào kết quả
của điện tâm đồ, nhất là điện tim trong cơn tim nhanh, đây là bằng chứng quan
trọng giúp chẩn đoán chính xác và điều trị hợp lý. Tuy nhiên, phần lớn bệnh
nhân đến khám bệnh đã hết cơn tim nhanh và nhịp tim đã trở về bình thường, nên
việc chẩn đoán thường bị bỏ sót. Những trường hợp như bé Linh và Nam khá phổ biến
tại Trung tâm can thiệp tim mạch và điện sinh lý của BV Nhi TƯ. Nguyên nhân chủ
yếu gây ra cơn tim nhanh kịch phát ở các em là do bất thường bẩm sinh, nếu
không được điều trị triệt để, bệnh có thể tái phát nhiều lần và có thể gây nguy
hiểm. Vì vậy, khi thấy con có biểu hiện tim đập nhanh lúc nghỉ ngơi, cha mẹ cần
đưa con đến BV chuyên khoa để được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, tránh những
biến chứng có thể xảy ra cho trẻ.
Dấu hiệu nhận biết và phương pháp điều trị
Theo bác sĩ Hải, phần lớn tim đập nhanh ở trẻ em là biểu
hiện đáp ứng tăng nhịp tim với các tình trạng sinh lý của cơ thể như: trong hoặc
sau khi vận động thể lực, khi trẻ lo lắng, khi trẻ bị sốt hoặc các tình trạng bệnh
lý khác gây cơn tim nhanh. Tuy nhiên, nhịp tim sớm trở lại bình thường khi các
điều kiện gây ra nó qua đi. Trong trường hợp nhịp tim nhanh do bệnh lý rối loạn
nhịp, triệu chứng nhịp tim nhanh xuất hiện ngay cả khi trẻ đang nghỉ ngơi.
Đối với trẻ nhỏ, triệu chứng của cơn tim nhanh thường mơ
hồ, không đặc hiệu và khó nhận biết. Trẻ thường biểu hiện bú kém, quấy khóc, thở
nhanh. Nặng hơn thì ngủ nhiều hoặc lơ mơ, da lạnh và tái, tiểu ít. Dấu hiệu nhận
biết quan trọng nhất là nhìn vào lồng ngực trước tim hoặc sờ ngực trước tim thấy
tim đập nhanh và mạnh, hoặc quan sát vùng cổ hai bên trên xương đòn thấy “phập
phồng theo tim đập” rất nhanh, đếm nhịp tim thường thấy tim đập trên 220 lần/phút
(nhịp tim bình thường ở trẻ bú mẹ khi nghỉ là dưới 160 lần/phút). Còn ở trẻ lớn:
Trẻ thường kêu đột ngột có cơn đánh trống ngực hoặc tim đập nhanh khi nghỉ rồi
mất đi đột ngột và tái diễn nhiều lần. Thường có một trong các triệu chứng kèm
theo: đau tức ngực, khó thở, mệt mỏi, khó chịu. Một số trường hợp có thể ngất xỉu.
Khi để trẻ nằm hoặc ngồi nghỉ, đếm nhịp tim thường phát hiện thấy tim đập trên
180 lần/phút. Khi hết cơn, trẻ nhanh chóng trở lại bình thường.
Để chẩn đoán trẻ bị cơn tim nhanh, ngoài việc phải ghi điện
tim trong lúc đang bị cơn tim nhanh còn phải ghi điện tim cả khi tim đập bình
thường. Điện tim ghi được trong lúc tim nhanh có thể chẩn đoán chính xác được hầu
hết các loại rối loạn tim nhanh. Điện tim ghi được lúc tim đập bình thường có
thể gợi ý hướng đến chẩn đoán loại loạn nhịp có thể có. Tuy nhiên phần lớn điện
tim ngoài cơn tim nhanh là bình thường, nên việc chẩn đoán rất khó khăn. Để ghi
được điện tim trong lúc xuất hiện triệu chứng nghi ngờ tim nhanh, bệnh nhân cần
phải được gắn máy ghi điện tim liên tục trong nhiều giờ hoặc nhiều ngày, hoặc
mang theo máy ghi điện tim cầm tay, hoặc được cấy máy tự ghi điện tim trong cơ
thể. Ngày nay, với phương pháp thăm dò điện sinh lý trong tim cho phép chẩn
đoán chính xác hầu hết các rối loạn nhịp. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được
áp dụng đối với một số trường hợp nghi ngờ loạn nhịp tim có triệu chứng, hoặc
khi có chỉ định điều trị triệt để bằng can thiệp và chỉ có thể thực hiện được tại
bệnh viện có chuyên khoa sâu.
Hiện nay, phương pháp điều trị phổ biến là dùng các thuốc
chống loạn nhịp để cắt cơn và dự phòng tái phát cơn cho các bệnh nhân có cơn
tim nhanh kéo dài và cơn tim nhanh nguy kịch. Tuy nhiên, việc dùng các thuốc chống
loạn nhịp có nhiều hạn chế: không điều trị được triệt để, uống thuốc hằng ngày,
dùng thuốc kéo dài, tác dụng hạn chế (hiện tượng kháng thuốc), tác dụng phụ của
thuốc, chi phí đi lại và thăm khám nhiều lần. Chính vì vậy, phương pháp can thiệp
điều trị bằng đốt điện (dòng điện có sóng cao tần) được lựa chọn hàng đầu đối với
trẻ lớn cho hầu hết các loại loạn nhịp tim nhanh và trẻ nhỏ khi có dấu hiệu
nguy hiểm. Đây là biện pháp điều trị triệt để, chống tái phát cơn, tỉ lệ điều
trị thành công trên 95%, rất ít tai biến và biến chứng do kỹ thuật. Đây cũng là
phương pháp thay thế cho phương pháp phẫu thuật điều trị loạn nhịp trước đây.
Nguồn: Lưu Hường (VOV)